Tổng số lượt xem trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

40 năm hải chiến Hoàng Sa -Báo Tuổi Trẻ

“40 năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể nào quên được trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhiều đồng đội của chúng tôi đến giờ vẫn còn lại dưới đáy sâu vùng biển này. Thân xác và hương hồn những người lính Việt đã hòa với cát đá, sóng gió đại dương để mãi mãi khẳng định rằng nơi này chưa một ngày nào chia lìa Tổ quốc...”.
TT - Ngày 11-1-1974, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Kèm theo những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Quốc phái nhiều tàu đánh cá võ trang và tàu chiến xâm nhập hải ày hôm sau 12-1-1974, ngoại trưởng Việt Nam cộng hòa (VNCH) Vương Văn Bắc đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc. Đồng thời, Bộ tư lệnh hải quân VNCH khẩn cấp tăng cường chiến hạm tuần tiễu tại vùng biển Hoàng Sa.
Ảnh vệ tinh đảo Quang Hòa (Duncan) nơi bắt đầu trận hải chiến Hoàng Sa 1974

Đổ bộ, cắm cờ và khiêu khích
Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải, viết trong hồi ký: “Vào ngày 15-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16), hạm trưởng là trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán đang ở ngoài đó hết nhiệm kỳ. Cùng đi còn có hai sĩ quan công binh đi theo tàu để nghiên cứu việc tu sửa lại cầu tàu tại Hoàng Sa và một người Mỹ tên Gerald Kosh xin đi để biết đảo Hoàng Sa... Khi chiến hạm vừa khởi hành, tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là thấy một vài ghe đánh cá xuất hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin tức đó cho chiến hạm HQ16”.
Sáng 16-1, đến đảo Pattle (Hoàng Sa), HQ16 cho bốn nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở sáu người trong đoàn công binh lên đảo do thiếu tá Hồng chỉ huy và trong khi chờ đoàn công binh trở lại tàu, hạm trưởng HQ16 “thấy trên đảo Quang Hòa bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, đi lại gần một dãy nhà đang cất dở dang”. Hạm trưởng Thự liền hỏi bộ chỉ huy và được biết trên đảo này không có “quân ta”.
Đến trưa 16-1-1974, HQ16 lại thấy “một chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng”. Trung úy Đào Dân, sĩ quan phụ tá trên HQ16, ra lệnh đánh tín hiệu nhưng tàu lạ im lặng. Ông viết trong hồi ký: “Tôi liền hội ý với hạm trưởng và khai hỏa đại liên 30 li cố ý đuổi nó ra khỏi vùng đảo nhưng tàu lạ vẫn không nhúc nhích”. HQ16 tiến gần hơn khoảng 500m thì thấy rõ lá cờ Trung Quốc. Một mặt HQ16 báo cáo về bộ chỉ huy, một mặt dùng tay, cờ và loa phóng thanh tiếng Hoa “yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam”. Lúc đó tàu Trung Quốc không trả lời, nhiều người lên boong tàu, “đa số mặc quần cụt, áo thun, một số mặc quân phục”. Mãi một lúc lâu, tàu Trung Quốc cũng lên tiếng “yêu cầu ngược lại”. Đồng thời, “nhiều tàu cá xuất hiện cạnh đảo Money và hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bờ cát trắng”.
Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, trung tá Thự phải báo cáo về bộ tư lệnh hải quân và xin được tăng viện. Khu trục hạm Trần Khánh Dư số hiệu HQ-4, do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng, được lệnh khẩn cấp hành quân ra Hoàng Sa.
40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục hiện đang sống ở Huế vẫn không thể quên được cuộc hành quân đặc biệt này. “Khoảng giữa tháng 1-1974, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư sắp hoàn thành nhiệm vụ tuần tra biển vùng 1 và chuẩn bị vào bờ. Đang tính toán lên bờ Đà Nẵng sẽ mua sắm quà tết gì cho gia đình thì bất ngờ nhận nhiệm vụ mới ở Hoàng Sa. Anh em binh sĩ, thủy thủ đoàn chưa rõ tình hình nhưng đoán nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi tết nhất rồi mà còn phải hành quân khẩn cấp chắc chắn phải có lý do quân sự”. Ông Dục lúc ấy là quản trưởng có trách nhiệm thay mặt hạm trưởng sắp xếp, điều động toàn bộ nhân sự trên tàu.
Cuộc hành quân lúc 0 giờ
Công tác chuẩn bị của khu trục hạm Trần Khánh Dư rất gấp rút. Buổi chiều, hạm trưởng San lên bờ họp trong khi bộ phận còn lại hối hả tiếp liệu, lương thực, đạn dược... Khoảng nửa đêm 16-1, tàu quay mũi rời Đà Nẵng hướng ra Hoàng Sa. Ngoài binh sĩ cơ hữu, tàu chở thêm một trung đội biệt hải do đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy. HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp hiện đại nhất thời điểm ấy của hải quân VNCH nên tốc độ khá cao. Khoảng trưa 17-1, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư đã gia nhập với tuần dương hạm HQ16 Lý Thường Kiệt có mặt từ trước.
Tư lệnh vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại “chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) và khu trục hạm Trần Khánh Dư”. Trung úy hải quân Đào Dân kể: Vừa nhập vùng, HQ-4 hành động ngay. HQ-4 từ phía nam đảo Money chạy lên, HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống kềm chặt hai chiếc tàu Trung Quốc vào giữa. Hai bên đấu khẩu nhau. Cuối cùng HQ-4 nổ máy đâm thẳng tàu địch đuổi nó ra khơi”.
Là một trong những sĩ quan thường xuyên có mặt trên đài chỉ huy cùng hạm trưởng San, cựu trung úy Phạm Ngọc Roa (hiện sống ở Lâm Đồng), phụ tá sĩ quan hải hành, kể: “Hạm trưởng San là một người thẳng thắn và nóng tính, sẵn sàng thực hiện ngay việc mình xác quyết là đúng. Trung tá San lệnh dùng cờ, quang hiệu lẫn loa phát tiếng Việt, Trung, Anh để đuổi tàu Trung Quốc. Lúc đầu tàu Trung Quốc còn im lặng, đậu lì. Sau đó họ cũng trả lời dối trá lại đây là vùng chủ quyền Trung Quốc, yêu cầu tàu VNCH phải rời ngay lập tức. Hai bên vờn nhau mãi không giải quyết được gì, trung tá San cảnh báo, rồi ra lệnh bẻ lái ủi thẳng vào chiếc tàu giả trang ngư nghiệp 407 của Trung Quốc theo hướng đẩy ra xa đảo. Mũi khu trục hạm Trần Khánh Dư cao lớn hơn, chồm lên đè bể một phần buồng lái chiếc tàu 407 làm nó và một chiếc gần đó hoảng sợ, phải lùi ra xa.
Ông Dân mô tả “Trước thái độ quyết liệt của HQ-4, tàu địch bỏ chạy về phía nam của hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Sau khi đuổi hai tàu địch, HQ-4 đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money dẹp cờ Trung Quốc, cắm cờ VN. Còn HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán này mang vũ khí đầy đủ, lương thực khô vài ba ngày”.
Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ-4 kể: “Trung đội biệt hải lên đảo Quang Ảnh không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và chết mấy chục năm trước. Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ lên, chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo...”.
Đêm 17 rạng 18-1 là đêm cực kỳ căng thẳng. Phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!”. Phía Trung Quốc đáp trả rằng Hoàng Sa là của họ!
TRẦN NHẬT VY - QUỐC VIỆT
Trung tá hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San - Ảnh tư liệu
Sáng 17-1, theo nhà nghiên cứu Trần Đỗ Cẩm, “HQ16 quay lại đảo Hữu Nhật thấy hai tàu Trung Quốc vẫn còn đó. Ngoài ra, gần đảo Quang Ảnh (Money) lân cận cũng có tàu Trung Quốc xuất hiện với hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bãi cát trắng. Hạm trưởng HQ16 liền báo cáo “hai tàu cá Trung Quốc không tuân lệnh của chiến hạm VNCH ra khỏi lãnh hải VN và xuất hiện hai tàu chở quân của Trung Quốc đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ của Trung Quốc”. Nhận được báo cáo, đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho HQ16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Quang Ảnh để triệt hạ cờ Trung Quốc.
Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và 14 đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Quốc mới cắm và thay bằng cờ Việt Nam.

Kỳ 2-Tăng viện tái chiếm đảo
TT - “Sáng 18-1-1974, tình hình Hoàng Sa nóng như thùng thuốc nổ. Chiến hạm TQ được điều đến thêm. Chiến hạm VN từ Đà Nẵng lao ra.
HQ-16 Lý Thường Kiệt

Mọi người trên tàu đều sẵn sàng ở nhiệm sở chiến đấu. Binh sĩ các khẩu đội pháo phải ăn cơm tại chỗ. Đi vệ sinh cũng chỉ từng người để có thể tác xạ lập tức” - 40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục, quản trưởng khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, vẫn không kìm được sự xúc động khi nhắc lại khoảnh khắc ấy.
Tăng viện
Trước diễn biến Trung Quốc điều thêm chiến hạm cao tốc, Bộ tư lệnh hải quân VN cộng hòa đã tăng cường khẩn cấp hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.
Tối 17-1, tàu HQ-10 khởi hành trước, sau đó HQ-5 cũng từ Đà Nẵng quay mũi tàu hướng ra Hoàng Sa. Khoảng 3g15 ngày 18-1, hai chiến hạm gặp nhau ở tọa độ cách hải đăng Tiên Sa khoảng 8 hải lý về hướng đông. Trung tá Phạm Trọng Quỳnh là hạm trưởng tuần dương hạm HQ-5. Trên tàu còn có mặt đại tá Hà Văn Ngạc, hải đội trưởng hải đội 3 tuần duyên, nên HQ-5 là soái hạm, và đại tá Ngạc là quyền chỉ huy cao nhất. Tàu này cũng chở thêm biệt đội hải kích 49 người của đại úy Trần Cao Sạ chỉ huy. Tàu HQ-10 do thiếu tá Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng.
Trong bốn chiếc, hộ tống hạm Nhật Tảo yếu nhất. Thủy thủ cơ khí Trần Văn Hà, nhân chứng trở về sau trận hải chiến, hiện sống ở Bạc Liêu, kể: “Chiến hạm Nhật Tảo đã kết thúc chuyến tuần tra vùng 1, vào cảng Tiên Sa để chuẩn bị sửa chữa lớn, nhưng vì nhiệm vụ Hoàng Sa nên lại quay mũi ra biển. Mọi người vừa lên bờ chưa kịp ăn xong bữa cơm lại có lệnh đi ngay. Có người về trễ, nhảy với theo tàu, bị rớt xuống nước phải kéo lên”.
Hành quân ra Hoàng Sa, soái hạm HQ-5 Trần Bình Trọng không thể giảm tốc độ chờ HQ-10 Nhật Tảo nên một mình tiến lên trước. Khoảng 15 giờ ngày 18-1, HQ-5 đã vào khu vực quần đảo Hoàng Sa, nhập chung đội hình tác chiến với HQ-4 và HQ-16 đang đối đầu với lực lượng Trung Quốc. Trong hồi ký Tường thuật hải chiến Hoàng Sa được viết lại vào năm 1999, đại tá Hà Văn Ngạc kể: soái hạm HQ-5 đến lòng chảo Hoàng Sa đã thấy lực lượng biệt hải đổ bộ trên tàu HQ-4 và HQ-16 đang kiên cường trấn giữ các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Duy Mộng. Phía đảo Quang Hòa, tàu TQ đang lờn vờn bên ngoài.
Căng thẳng trước ngày N
Đại tá Ngạc quyết định lực lượng hải quân VN sẽ phô trương uy lực, bố trí đội hình tiến thẳng theo hàng dọc. Ông Ngạc viết: “Bốn chiến hạm (theo các ghi chép thì nửa đêm 18-1 HQ-10 mới tới do máy phụ đã hư) đều tập trung trong vùng lòng chảo quần đảo Hoàng Sa và hải đoàn đặc nhiệm đã hình thành. Nhóm chiến binh của HQ-4 và HQ-16 đã đổ bộ và trương quốc kỳ VN trên các đảo Hữu Nhật (Robert) do trung úy Lê Văn Dũng chỉ huy, đảo Quang Ảnh (Money) do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy và Duy Mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn giữ nguyên vị trí. Sau khi quan sát các chiến hạm của TQ lởn vởn phía bắc đảo Quang Hòa (Duncan), tôi quyết định hải đoàn sẽ phô trương lực lượng tiến về đảo Quang Hòa. Bốn chiến hạm hàng dọc tiến về đảo Quang Hòa, nơi các chiến hạm TQ đang tập trung”.
Ông Ngạc viết tiếp: “Chừng nửa giờ thì hai chiến hạm TQ loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 phản ứng bằng cách chặn trước hướng đi của hải đoàn. Hai chiến hạm nhỏ hơn số hiệu 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang 402, 407 vẫn nằm sát đảo Quang Hòa. Chiếc 271 liên lạc bằng quang hiệu và HQ-5 nhận công điện bằng Anh ngữ: “These islands belong to the People Republic of China...”. Tôi cho gửi ngay một công điện khái quát như sau: “Please leave our territorial water immediately”.
Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy (hiện sống tại TP.HCM) kể: “8 giờ sáng, HQ-4 được lệnh đổ bộ trung đội biệt hải lên đảo Hữu Nhật và cũng phát hiện những ngôi mộ giả như ở đảo Quang Ảnh”. Toán đổ bộ, sau khi hạ cờ TQ cắm cờ VN, đã tìm địa thế thích hợp để phòng thủ”. Đến 11 giờ, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ TQ xâm nhập và tiến đến gần đảo Hoàng Sa.
HQ-4 và HQ-16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi đến gần tàu đánh cá vũ trang, HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi, nhưng cả hai cố tình khiêu khích. HQ-4 tiến thẳng đến một tàu.
Thượng sĩ Lữ Công Bảy cho biết: “Thấy trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm, trang bị hai thượng liên và rất nhiều AK47. Khu trục hạm HQ-4 quyết định áp sát để đuổi. Hai bên đánh... võ mồm nhưng không tác dụng. HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng tàu TQ. Mũi HQ-4 và neo vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu TQ. HQ-16 cũng quyết liệt như vậy.
Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, tàu TQ vội vàng tháo lui. Đêm 18 rạng 19-1, tàu cá vũ trang TQ vẫn tiếp tục tiến gần đảo Hoàng Sa và khiêu khích. HQ-4 phải dùng kèn hơi thật lớn và đèn hồ quang rọi thẳng vào đội hình, tàu TQ mới rút.
Ông Đào Dân nhớ lại: “Buổi tối chỉ có HQ-16 giữa lòng chảo các đảo với quân số hơn 100 người. HQ-4 và HQ-5 trở về phía nam đảo Quang Hòa và Duy Mộng. Khoảng 10 giờ tối, HQ-10 mới tới nhập với HQ-16 trở thành phân đội 1 do trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng HQ-16, chỉ huy”.
Ông Trương Văn Liêm, sĩ quan phụ tá hạm phó HQ-5, nhớ lại: 1g45, tất cả sĩ quan đều có mặt. Hạm trưởng ra lệnh: “Chỉ thị đổ bộ vào sáng sớm, tất cả phải sẵn sàng ở nhiệm sở tác chiến toàn diện lúc 4 giờ sáng”.
QUỐC VIỆT - TRẦN NHẬT VY
Đại tá Hà Văn Ngạc đã gửi một công điện thượng khẩn đến các hạm trưởng vào lúc 11g30 đêm 18-1-1974:
- Nhiệm vụ: Hành quân thủy bộ cấp tốc chiếm lại đảo Quang Hòa.
- Thi hành: Đường lối ôn hòa, nếu địch khai hỏa kháng cự thì tập trung hỏa lực tiêu diệt địch.
- Kế hoạch: Hai chiến hạm HQ-4 và HQ-16 có nhiệm vụ yểm trợ lực lượng đổ bộ bằng cách bám sát hai chiến hạm Kronstadt 271 và 274. Nếu địch khai hỏa thì hai chiến hạm này sẽ nổ súng tiêu diệt. HQ-4 đổ bộ biệt hải từ phía tây đảo Quang Hòa và yểm trợ hải pháo cho lực lượng đổ bộ. Chiến hạm này cũng canh chừng các tàu nhỏ và tàu giả trang đánh cá Trung Quốc.
- Ngày N là ngày 19-1, giờ H là 6 giờ sáng.
- Quy luật khai hỏa được căn cứ trên hai trường hợp: Nếu địch khai hỏa trước sẽ phản ứng bằng hỏa lực cơ hữu tiêu diệt càng nhiều càng tốt, ưu tiên hỏa lực vào các chiến hạm quan trọng như Kronstadt hoặc các tàu lớn. Nếu địch tỏ vẻ ôn hòa, sẽ dè dặt và cảnh giác tối đa với phản ứng ôn hòa tương ứng, đồng thời tiến hành nhiệm vụ tái chiếm đảo Quang Hòa bằng thương lượng, sau đó cắm quốc kỳ lên đảo...
Tình hình Hoàng Sa được tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại báo cáo khẩn cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhân chuyến kinh lý miền Trung. Ông Thoại kể: “Sau khi nghe tôi trình bày, tổng thống Thiệu lấy bút giấy ra viết liên tục trong khoảng 15 phút. Sau khi viết xong, ông gọi tôi đến ngay trước mặt ông và yêu cầu tôi đọc mấy trang giấy đó. Tổng thống Thiệu nói: “Anh Thoại đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng cho tôi biết ngay từ bây giờ”. Trên đầu trang giấy có mấy chữ “chỉ thị cho tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải”. Sau khi trao thủ bút cho tôi, tổng thống Thiệu hỏi các vị tướng lãnh bộ binh hiện diện có ý kiến gì không. Không ai trả lời. Ông nói tiếp: “Chúng ta không để mất một tấc đất nào cả”.
Chỉ thị này ghi rõ: “Tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm đối phương ra khỏi lãnh hải VN. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ VN”. Phần sau, yêu cầu thủ tướng chính phủ “dùng mọi phương tiện để phản đối với quốc tế về sự xâm phạm lãnh hải VN”. Đồng thời yêu cầu “thủ tướng Khiêm và các đại sứ VN tại các quốc gia trên thế giới phải lên tiếng và trình bày rõ ràng về chủ quyền trên các hải đảo Hoàng Sa là thuộc chính phủ VNCH”.
(Trích hồi ký Hồ Văn Kỳ Thoại)

Kỳ 3-Đổ bộ đảo Quang Hòa
HQ-5 Trần Bình Trọng

Chạm trán quyết liệt
Ngay sau khi nhận lệnh, đại tá Ngạc chia hải đoàn thành hai phân đoàn đặc nhiệm. Phân đoàn 1 gồm HQ-4 và HQ-5 do hạm trưởng HQ-4 chỉ huy, có nhiệm vụ đổ bộ nhóm biệt hải và hải kích. Phân đoàn 2 gồm HQ-16 và HQ-10 do hạm trưởng HQ-16 chỉ huy.
Nhiệm vụ phân đoàn 2 là yểm trợ hải pháo và ngăn chặn tàu địch... Phân đoàn 1 khởi hành lúc 12g đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam có mặt tại đảo Quang Hòa lúc 6g sáng 19-1 để đổ bộ các biệt đội.
Đến khoảng 6g ngày 19-1-1974, HQ-4 và HQ-5 áp sát phía nam đảo Quang Hòa, còn HQ-10 và HQ-16 cũng dàn đội hình ở phía tây tây bắc đảo.
Trước diễn biến đó, tàu chiến Trung Quốc cũng chia thành hai phân đội với hai chiếc Kronstadt 271 và 274 đối đầu với phân đoàn 1 Việt Nam. Hai chiến hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 mới tới thì chặn phía tây bắc.
Vừa áp sát đảo Quang Hòa, các chiến hạm Việt Nam cộng hòa lập tức tung quân đổ bộ. 6g48 sáng 19-1, nhóm biệt hải tàu HQ-4 đổ bộ lên phía nam đảo, nhóm hải kích tàu HQ-5 lên phía tây tây nam.
Tuy nhiên, sóng gió ngược đã làm bè cao su nhóm hải kích bị đẩy ra ngoài. Tàu HQ-5 phải cho xuồng cứu hộ xuống trợ kéo bè vào đảo. Trong lúc ấy, ở phía bắc đảo Quang Hòa, hai tàu chiến Trung Quốc cũng đang hối hả đổ bộ với số quân đông áp đảo.
Quan sát từ đài chỉ huy, trung úy hải hành Phạm Ngọc Roa tường thuật: “Đội biệt hải HQ-4 lên được đảo Quang Hòa trước, tranh thủ tiến nhanh vào sâu trong đảo. Và rồi chạm trán với hàng trăm lính đổ bộ của Trung Quốc. Chúng lợi dụng phòng thủ sau bãi đá, chĩa súng hăm he bắn vào nhóm biệt hải. Hai bên dùng tay ra dấu chủ quyền quốc gia mình và xua đuổi nhau, nhưng chưa bên nào chịu rời đi”.
Trong lúc đó, nhóm người nhái của đội hải kích tàu HQ-5 cũng bắt đầu tiến vào đảo. Họ phải lội qua một đầm nước trống trải, ngập đến thắt lưng mà phía trước lại đầy mũi súng quân xâm lược...
Tình hình ngày càng căng thẳng
Ở phía tây tây nam đảo Quang Hòa, biệt đội hải kích do trung úy Lê Văn Đơn chỉ huy được đổ bộ từ chiến hạm HQ-5. Nhóm hải kích người nhái này tiến vào đảo bằng hai xuồng cao su với một số loại súng và dao găm. Hạ sĩ Đỗ Văn Long là người đầu tiên lao lên đảo.
Thượng sĩ giám lộ tàu HQ-4 Lữ Công Bảy kể lại: “Khi đến gần đảo Quang Hòa, bằng ống dòm và mắt thường, chúng tôi phát hiện doanh trại mới toanh có cờ Trung Quốc. Ở phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc đổ bộ ào ạt lên. Chúng núp sau các tảng đá chĩa súng vào các biệt đội... Và rồi quân Trung Quốc đã nổ súng. Lúc 8g30, đại liên và cối 82 bắn thẳng vào đội hình nhóm hải kích VN. Họ đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Hai binh sĩ Việt Nam cộng hòa tử thương và hai bị thương”.
Đứng trên đài chỉ huy tàu HQ-4, trung tá Vũ Hữu San và thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy, trung úy Phạm Ngọc Roa thấy đồng đội mình đang ở thế cực kỳ nguy hiểm.
Địa thế trống trải, họ không có vật cản gì để phòng thủ, trong khi phía Trung Quốc từ chỗ ẩn nấp cứ vãi đạn như mưa. 40 năm sau, hồi tưởng khoảnh khắc vệ quốc này, ông Roa vẫn cảm giác tim mình nhói lên khi nhìn thấy đồng đội ngã xuống. Tuy nhiên, nhóm hải kích vẫn không lùi một bước, đến khi được lệnh tạm rút, họ mới chịu lùi về tàu.
Lúc đó tình hình ngoài biển cũng hết sức căng thẳng. Tất cả chiến hạm Trung Quốc và Việt Nam đều trong tình trạng nhiệm sở chiến đấu 100%.
Cựu thượng sĩ Trần Dục, quản trưởng tàu HQ-4, kể ông đã thay mặt hạm trưởng yêu cầu tất cả sĩ quan, binh lính sẵn sàng quân trang, quân dụng chiến đấu với nón sắt, áo giáp, áo phao, giày không cột dây...
Từ soái hạm HQ-5 Trần Bình Trọng, đại tá Hà Văn Ngạc lệnh cho bốn chiến hạm di chuyển theo chiến thuật mới. Tàu HQ-4 và HQ-5 tiến từ phía tây nam tới tây đảo Quang Hòa.
Tàu HQ-16 và HQ-10 đến phía tây tây bắc. Đường tiến hai phân đội tạo thành vòng cung bao quanh Quang Hòa trong tình hình quân Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ đảo. Dưới biển, tàu Trung Quốc lập tức di chuyển đội hình bám chặt bốn chiến hạm Việt Nam...
... Lúc đó, chuyện gì xảy ra tại Đà Nẵng, nơi đặt Trung tâm hành quân Vùng 1 duyên hải?
Rất căng thẳng. Và sau một cú điện thoại, tư lệnh Vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại đã đi đến một quyết định...
QUỐC VIỆT - TRẦN NHẬT VY
Sau khi Trung Quốc có những hành động gây hấn và xâm chiến Hoàng Sa, tháng 1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng phản đối.
Ngày 9-9-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiếp tục đăng ký Đài khí tượng Việt Nam tại Hoàng Sa và khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo này.
Ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và có quyền bảo vệ chủ quyền đó.

Kỳ 4-Lệnh khai hỏa
HQ-4 chiến đấu với hai tàu 271 và 274 (ảnh Trung Quốc)
Trung úy Phạm Ngọc Roa, phụ tá sĩ quan hải hành trên khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư (Việt Nam cộng hòa), vẫn nhớ mãi những phút căng thẳng trước lệnh khai hỏa.
Khai hỏa
“Tùy nghi khai hỏa...”. Từ trung tâm hành quân tại Đà Nẵng, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại lệnh qua điện đàm với đại tá Hà Văn Ngạc.
“Khai hỏa”, đại tá Ngạc phát lệnh vào lúc 10g24 sáng 19-1-1974. Ngay lập tức, bốn chiến hạm HQ-4 Trần Khánh Dư, HQ-5 Trần Bình Trọng, HQ-16 Lý Thường Kiệt, HQ-10 Nhật Tảo bắt đầu tác xạ mãnh liệt vào các tàu chiến đối phương.
Tình hình tại chiến trường diễn ra hết sức ác liệt. Soái hạm HQ-5 bắn dữ dội vào các chiếc Kronstadt 274 ở hướng tây đảo Quang Hòa. Chiến hạm Trung Quốc này trúng đạn ngay loạt đầu tiên, di chuyển rất chậm chạp và phản pháo nhưng không gây thiệt hại cho HQ-5.
Cùng có mặt trên đài chỉ huy HQ-4 trong khoảnh khắc tử chiến đó, trung úy Roa kể chính nhờ hạm trưởng San cho tàu vận chuyển linh hoạt nên tránh được một trái pháo của tàu đối phương bắn vào đài chỉ huy, tuy nhiên nó lại bay vào ống khói. Mảnh đạn văng vào đài chỉ huy trúng ngay chân trung úy Roa. Các mảnh đạn khác cũng phá sụp chân màn hình radar làm nó không hoạt động. Tuy nhiên, trung úy Roa vẫn trụ vững ở vị trí theo dõi tàu địch. Dây liên lạc sĩ quan hải pháo với các khẩu đội đã bị mảnh đạn cắt đứt, không liên lạc được. Phía tàu chiến Trung Quốc cũng bị thiệt hại nặng nề. Trong làn đạn 76,2 li của HQ-4 Trần Khánh Dư, chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn bốc cháy dữ dội.
Tình hình trên tuần dương hạm HQ-16 Lý Thường Kiệt cũng rất ác liệt sau những loạt đạn bắn chuẩn xác vào chiến hạm TQ. Trong bài viết Sự thật về hải chiến Hoàng Sa, hạm trưởng Lê Văn Thự kể: “Tôi quay ngang tàu
HQ-16 đưa phía hữu mạn của tàu hướng về ba tàu Trung Quốc. Mục đích của tôi là tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Quốc thì chỉ sử dụng được hỏa lực phía trước mũi thôi. Với lợi thế là sử dụng được tối đa hỏa lực nhưng cũng có bất lợi là hứng đạn nhiều hơn”.
Trung tá Thự kể tiếp chính mắt ông nhìn thấy một tàu Trung Quốc bốc khói, một tàu bị trúng hệ thống lái nên tàu cứ xoay quanh... Sau đó chiến sự diễn biến ác liệt hơn. Đối phương phản pháo, tàu Lý Thường Kiệt bị trúng đạn ở hầm đạn 127 li phía trước mũi nên nước biển tràn vào mỗi khi tàu chúc xuống. Hỏa lực chính hết tác xạ được. Ở lườn tàu dưới mặt nước, một lỗ pháo lớn làm nước biển tràn vào. Tàu bị nghiêng dần sang một bên.
HQ-16 Lý Thường Kiệt càng lúc càng nghiêng thêm theo lượng nước vào ồ ạt. Góc bị thủng không có chỗ để chống xà chặn tấm bố để bít lỗ thủng. Hạm trưởng phải cho đóng nắp hầm máy này lại để nước không tràn ra khoang khác. Từ lúc này, HQ-16 chỉ khiển dụng được một máy, sức mạnh yếu hẳn. Đặc biệt, hệ thống vô tuyến cũng tê liệt vì máy phát điện hư. Nhận thấy HQ-16 mất khả năng chiến đấu, hạm trưởng cho tàu tạm lùi khỏi lòng chảo Hoàng Sa.
Trận chiến của HQ-10 Nhật Tảo
Sau lệnh khai hỏa, các khẩu đội pháo trên chiếc HQ-10 Nhật Tảo rền lên trực xạ. Ở gần đó, các khẩu pháo của HQ-16 Lý Thường Kiệt do trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đang tác xạ dữ dội. Những loạt đạn này đã bắn trúng trục lôi hạm 389 của đối phương làm nó phát nổ, bốc khói lửa rừng rực. Chiếc 396 ở gần đó cũng trúng đạn từ hai chiến hạm của Việt Nam. Hệ thống lái của tàu đối phương này bị phá hỏng làm nó loạng choạng trên biển. Cùng lúc đó, chiếc 389 còn bị trúng đạn vào hầm máy. Các báo cáo của hải quân Trung Quốc sau đó cũng thừa nhận hai chiến hạm 389 và 396 của mình đã trúng đạn ngay từ phút đầu: “Trong lúc chiếc hộ tống hạm HQ-10 bị trọng thương, trục lôi hạm 389 cũng bị chiến hạm Việt Nam bắn hư hại nặng. Đài chỉ huy hoàn toàn bị tiêu hủy. Thủy thủ đoàn nhiều người chết, bị thương. Hầm chứa đạn bị bắn thủng một lỗ lớn... Hầm máy cũng bị bắn trúng nên cháy dữ dội khiến tàu vô nước, bị nghiêng, không còn dưỡng khí khiến cơ khí phó và năm cơ khí viên tử thương tại chỗ”.
Tuy nhiên, ngay tình thế đang áp đảo, khẩu đội pháo chính phía trước chiến hạm Nhật Tảo lại trở ngại tác xạ. Máy tàu cũng yếu không kịp giúp con tàu xoay chuyển linh hoạt để phát huy pháo phía sau. Trong nhật ký trận Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách khẩu 20 li và cối 81 li phía sau tàu, kể đang lúc ác liệt thì đến khẩu 20 li đôi cũng kẹt đạn. Ông phải cho bắn chỉ một nòng. Cả hai trục lôi hạm 389 và 396 của Trung Quốc tận dụng cơ hội này để trả đũa.
Chuẩn úy Tất Ngưu kể ông và đồng đội đang cố gắng tác xạ phía sau thì bất ngờ nghe tiếng rầm. HQ-10 Nhật Tảo và chiếc 389 đụng nhau. Từ đài chỉ huy, đại úy hạm phó Nguyễn Thành Trí dùng súng M16 bắn xối xả sang tàu đối phương. Có người cho rằng vì cả hai máy tàu lúc này đều bị bắn hư nên chúng đã trôi va vào nhau...”.
Tài liệu báo cáo chiến trận từ phía hải quân Trung Quốc mặc dù nặng tuyên truyền tinh thần chiến đấu và chiến tích, nhưng cũng có nhiều nội dung thừa nhận phải trả giá nặng nề”.
Trận chiến chỉ diễn ra trong vòng 30 phút. Hai bên đều thiệt hại nặng.
Quân Trung Quốc tăng viện mạnh. Các chiến hạm VNCH được lệnh rút lui khỏi vòng chiến sự. Một kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa của VNCH với các chiến hạm tăng viện và 100 chiến đấu cơ F-5 đã được vạch ra nhưng bất thành.
Ngày 2-7-1976, Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thành lập và hoàn toàn có nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngày 12-5-1977, Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam có các vùng biển và thềm lục địa riêng. Đoạn 5 của tuyên bố viết: các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở điều 1 đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa riêng như đã quy định trong các điều 1, 2, 3 và 4 của tuyên bố này.
 QUỐC VIỆT

Kỳ 5-Nhật Tảo nằm lại, không kích bất thành

HQ-10 Nhật Tảo

TT - “Thiếu tá, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử trận ngay trên đài chỉ huy vì mảnh đạn cắt ngang cổ. Đại úy, hạm phó Nguyễn Thành Trí cũng bị thương nặng ở bụng, mặt và ngực."
"Sau cú đâm thẳng vào trục lôi hạm 389 Trung Quốc, máy hộ tống hạm HQ-10 Nhật Tảo hoàn toàn bất khiển dụng, và các khẩu pháo chính cũng hư hỏng. Đại úy Trí máu ướt đẫm quần áo, ngậm ngùi phát lệnh rời chiến hạm”.
40 năm đã trôi qua, nhân chứng Trần Văn Hà trên chiến hạm Nhật Tảo vẫn không thể quên được thời khắc đó.
Rời tàu
Cũng như các binh sĩ khác, ông Trần Văn Hà, thủy thủ cơ khí, được đại úy Trí gọi tập trung lên boong, chuẩn bị rời tàu. Toàn cảnh bi hùng hiện rõ trước mắt mọi người.
Thiếu tá Thà gục xuống tay lái tàu. Nhiều sĩ quan, binh lính khác cũng tử trận hoặc bị thương la liệt khắp nơi. Thân tàu chi chít lỗ đạn pháo. Phía đối phương, trục lôi hạm 389 cũng đang bốc cháy rừng rực.
“Một số anh em nhất quyết đòi ở lại với tàu. Đó là những người đã bị thương nặng và cả một số pháo thủ chưa bị gì”. Nhắc lại chi tiết này, ông Hà nhớ mãi câu nhắn nhủ của những người bị thương nặng: “Thôi, chiến hữu xuống bè đi, để chúng tôi ở lại”. Đó là Lê Văn Tây, Ngô Văn Sáu...
Họ vừa nhắn nhủ lời chia tay vừa xem cơ số đạn còn lại. Trước khi hi sinh, thiếu tá Thà đã dự đoán trận hải chiến sinh tử. Ông cho người chuẩn bị bè cứu sinh và cột sẵn một số lon nước, túi kẹo năng lượng.
Chính nhờ sự cẩn thận này mà các binh sĩ rời tàu có thể cầm cự trên biển. Những binh sĩ còn khỏe thả bốn chiếc bè xuống. Có chiếc đã bị trúng mảnh đạn nhưng vẫn còn dùng tạm được.
Trong Nhật ký Hoàng Sa, chuẩn úy Tất Ngưu, sĩ quan phụ trách các khẩu đội pháo phía sau chiến hạm Nhật Tảo, kể ông là một trong những người nhảy xuống biển sau cùng.
Trước khi nhảy, ông còn gọi hạ sĩ Lê Văn Tây rời tàu. Viên hạ sĩ này rắn rỏi trả lời: “Thôi, tôi ở lại ăn thua đủ với bọn Trung Quốc, chuẩn úy cứ nhảy đi”.
Lúc ấy, những chiếc bè dưới biển đã bị sóng đánh dạt xa tàu. Chuẩn úy Tất Ngưu phải cố gắng bơi thật lâu mới bám được.
Khoảnh khắc cuối cùng
Ông Hà kể lúc ấy tất cả ánh mắt trên bè đều hướng về con tàu của mình trong khoảnh khắc cuối cùng. Hai chiến hạm Trung Quốc tăng viện đến sau đã xối xả bắn như trả thù vào chiếc Nhật Tảo.
Đạn bắn trả vẫn lóe lên trên đầu các họng súng từ chiến hạm VN. Nhìn nòng súng còn lóe đạn là biết đồng đội mình vẫn còn sống và đang tử chiến. Chiều chập choạng tối, ánh đạn lóe trên nòng pháo từ chiếc Nhật Tảo thưa dần rồi bặt hẳn.
Đứng từ đảo Hữu Nhật (Robert), trung sĩ Trịnh Văn Quý, thuộc nhóm đổ bộ từ khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4, chứng kiến cảnh chiếc Nhật Tảo oằn mình dưới lửa đạn của chiến hạm Trung Quốc.
Ông Quý chính là chứng nhân những phút hải chiến đầu tiên khi chiến hạm Nhật Tảo dũng mãnh tả xung hữu đột cùng lúc với hai tàu chiến 389 và 396 Trung Quốc.
“Và tôi cũng chính là chứng nhân khoảnh khắc cuối cùng của chiến hạm này trước lúc nó chìm hẳn vào khoảng 8g ngày 20-1-1974 ở vị trí gần đảo Hữu Nhật”.
Dưới biển, các bè lúc này đã được cột lại với nhau, nhưng một chiếc bị sóng đánh tung ra. Đêm xuống, đại úy Trí lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, rồi thượng sĩ giám lộ Vương Thương, thượng sĩ Tuấn, Thọ... cũng lần lượt ra đi theo hạm trưởng, hạm phó của họ.
Những binh sĩ còn lại trên bè cũng bị bỏng nắng ban ngày, rét run ban đêm và lả dần trong đói khát. Hạm đội 7 của Mỹ án binh bất động, không đáp ứng đề nghị của VNCH nhằm cứu binh sĩ VNCH đang trôi giạt ngoài khơi.
Đến chiều tối 22-1, tức sau bốn ngày ba đêm lênh đênh trên biển, những người lính cuối cùng của chiến hạm Nhật Tảo được chiếc tàu buôn Hà Lan phát hiện, cứu vớt.
Tất cả chỉ còn 21 người! Chiến hạm HQ-10 Nhật Tảo đã nằm lại dưới đáy biển Hoàng Sa.
Không kích tái chiếm bất thành!
Một ngày sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc, lực lượng phi công chiến đấu của quân đội VNCH đã được huy động cho một chiến dịch phản công tái chiếm chưa từng có.
Một trong những nhân chứng của chiến dịch ấy là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đại tá phi công Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ (1974) là thiếu úy phi công lái máy bay tiêm kích F5E của không lực VNCH.
Ông kể: “Lệnh tập kết các phi đoàn máy bay F5 từ Sài Gòn ra Đà Nẵng được ban hành khẩn cấp ngay trong ngày 20-1, một ngày sau khi Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa. Khi ấy không đoàn chiến thuật 63 (thuộc sư đoàn 3 không quân) đóng tại Biên Hòa có năm phi đoàn F5 với hơn 100 chiếc sẵn sàng đợi lệnh."
Trong khi anh em phi công của các phi đoàn đang rất náo nức chuẩn bị cho chiến dịch phản kích tái chiếm thì suốt ngày hôm đó, các phi cơ RF5A của phi đoàn 522 đã bay ra Hoàng Sa chụp không ảnh toàn bộ khu vực mang về căn cứ Đà Nẵng để chuẩn bị cho anh em phi công nghiên cứu.
Toàn bộ ảnh chụp khu vực quần đảo Hoàng Sa được phóng lớn. Tất cả anh em phi công đều nhìn thấy rõ cả số hiệu các tàu Trung Quốc đang đậu trên vùng biển Hoàng Sa. Có 41 chiếc tất thảy...
Chuẩn bị cho trận đánh tái chiếm Hoàng Sa với tinh thần “Trân Châu cảng” vừa khẩn cấp vừa náo nức. Trước ngày vào chiến dịch, tất cả anh em phi công của các phi đoàn F-5 đều ký dưới lá đơn “Xin được chết cho Hoàng Sa”.
Khi tất cả các phi đoàn F.5 được lệnh tập trung ở Đà Nẵng, người Mỹ vẫn chưa biết đến kế hoạch này. Nhưng chuẩn bị đến giờ G thì kế hoạch đã bị chặn lại. Cũng như trước đó, hạm đội 7 của Mỹ vẫn án binh bất động không hề có một động thái nào để cứu giúp binh sĩ VNCH.
Tất cả hào khí háo hức, sự chuẩn bị chu toàn của anh em nhằm đánh một trận “sạch không kình ngạc” chiếm lại quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc bỗng chốc tan thành mây khói từ “lệnh của trên”!
Q.VIỆT - L.Đ.DỤC - L.NAM
Hoa Kỳ chính thức bỏ rơi Hoàng Sa từ lúc nào?
Tài liệu mang mã số 1974STATE012641_b, đề ngày thứ bảy 19-1-1974 dưới đây chính là văn bản chính thức đầu tiên tỏ rõ lập trường của “đồng minh Hoa Kỳ” đối với Hoàng Sa:
“Đụng độ vũ trang trên quần đảo Hoàng Sa rõ ràng đã dẫn đến một số thương vong về phía Chính phủ Việt Nam, với báo cáo của Chính phủ Việt Nam rằng hai pháo hạm có thể bị đánh chìm bởi tên lửa Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn.
1. Tình hình phức tạp bởi sự hiện diện được báo cáo trên đảo Hoàng Sa (do Chính phủ Việt Nam chiếm đóng) của một nhân viên dân sự Mỹ trực thuộc văn phòng DAO (tùy viên quân sự Hoa Kỳ) tại Đà Nẵng. Chúng tôi không biết tại sao đương sự lại có mặt ở đó.
2. Chúng tôi đã yêu cầu Bộ quốc phòng chỉ đạo cho hải quân Hoa Kỳ đóng bên ngoài khu vực. Cách đây hai ngày (17-1), chúng tôi đã thảo luận tình hình với đại sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ mối quan tâm của chúng ta trong việc làm dịu tình hình.
3. Thông cáo báo chí sẽ gồm những dòng chữ sau đây: Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong các cuộc tranh chấp xung đột về quần đảo Hoàng Sa, song mạnh mẽ mong muốn giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Chúng tôi hiểu rằng cả CHNDTH và Chính phủ Việt Nam đều đã từng chiếm đóng một số đảo khác nhau thuộc nhóm đảo Hoàng Sa trong một số năm. Chúng tôi không rõ vụ đụng độ này đã nổ ra trong hoàn cảnh nào. Lực lượng quân sự Mỹ không dính dự vào vụ này.
4. Chúng tôi đang bảo tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn khuyên Chính phủ Việt Nam tiến hành những bước tối thiểu nhằm tự vệ và cứu cấp các công dân của mình (và nhân viên Hoa Kỳ chúng ta nữa), và cố gắng tối đa tránh những đụng độ trực tiếp nữa với lực lượng CHNDTH...”.
Làm thế nào mà Nhà Trắng lại không biết tại sao nhân viên DAO nọ lại có mặt ở Hoàng Sa, lại không rõ đụng độ đã xảy ra trong hoàn cảnh nào, song lại “khuyên Chính phủ Việt Nam tránh đụng độ trực tiếp thêm nữa với CHNDTH” khi mà từ hôm 17-1, tức khi trận Hoàng Sa mới bắt đầu khởi sự (17-1), “chúng tôi đã thảo luận tình hình với đại sứ Martin qua điện thoại”?
Một sự “đứng ngoài cuộc” chính thức. Không phải vì Hiệp định Paris mà từ cái bắt tay Mỹ - Trung năm 1972.
HỮU NGHỊ













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét